Tìm hiểu nội dung thay đổi Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” so với Điều 202 BLHS năm 1999.

22443
Đánh giá bài viết

Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác.

Ảnh minh họa.

So với Điều 202 BLHS năm 1999 thì Điều 260 BLHS năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung như: Sửa tội danh “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tại Điều 202 BLHS năm 1999 thành “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tại Điều 260 BLHS năm 2015. Việc sửa tội danh này nhằm mở rộng phạm vi xử lý các hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, không chỉ là hành vi vi phạm của người điều khiển phương tiện giao thong mà cả người đi bộ; Giữ lại tình tiết “Không có giấy phép lái xe theo quy định” bỏ tình tiết “Không có bằng lái xe theo quy định”; Bỏ cụm từ “đang làm nhiệm vụ” trong tình tiết “không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông”.

– Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Phương tiện giao thông đường bộ Người phạm tội này đã có hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Để xác định hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết phải xác định thế nào là người tham gia giao thông đường bộ. Điều 202 BLHS năm 1999 chỉ quy định hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nên phạm vi xác định hành vi vi phạm có hẹp hơn, nay quy định hanh vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nên phạm vi xác định hành vi vi phạm rộng hơn, kể cả người không điều khiển phương tiện giao thông đường bộ cũng vi phạm, bao gồm cả người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ.

Vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ là không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định an toàn giao thông đường bộ. Ví dụ: Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải (khoản 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ).

Như vậy, việc xác định hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ không chỉ căn cứ vào các quy định của BLHS mà phải căn cứ vào các quy định tại Luật Giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tai sản.

Trường hợp phương tiện giao thông đường bộ di chuyển, hoạt động nhưng không tham gia giao thông đường bộ (như di chuyển, hoạt động trong trường học, công trường đang thi công hoặc đang khai thác) mà gây tai nạn thì người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 mà bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng khác nếu thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm đó như tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 128 BLHS năm 2015, tội vo ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính quy định tại Điều 129 BLHS năm 2015 hoặc tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người quy định tại Điều 295 BLHS năm 2015.

Một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như: địa điểm (nơi vi phạm là nơi dành cho giao thông đường bộ)…Việc xác định các dấu hiệu khách quan này là rất quan trọng, là dấu hiệu để phân biệt giữa tội này với các tội vi phạm an toàn giao thông khác.

Luật Giao thông đường bộ quy định “đường bộ” gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. Còn “phương tiện giao thông đường bộ” gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sợ đường bộ. “Phương tiện tham gia giao thông đường bộ” gồm phương tiện giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng. “Xe máy chuyên dùng” gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp có tham gia giao thông đường bộ.

Đối với “Phương tiện tham gia giao thông đường bộ”, nói chung không khó xác định. Tuy nhiên, đối với xe máy chuyên dùng, việc xác định có phải là phương tiện tham gia giao thông hay không, có nhiều trường hợp phức tạp. Ví dụ: Một chiếc máy ủi đang thi công trên một đoạn đường thì chiếc máy ủi này có tham gia giao thông không hay chỉ là phương tiện thi công bình thường? Thực tiễn xét xử cho thấy, nếu chiếc máy ủi này đang thi công thì không coi là tham gia giao thông, nhưng nếu chiếc máy ủi này di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác hoặc từ nơi tập kết xe máy đến công trường thì được coi là tham gia giao thông.

So với khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 không có các tình tiết định khung hình phạt thì khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 đã có các tình tiết định khung hình phạt cụ thể: a) Làm chết người; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015.

Thiệt hại cho tính mạng là làm người khác bị chết; Thiệt hại cho sức khỏe hoặc tài sản của người khác coi là làm cho người khác bị thương hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát hư hỏng.

– Chủ thể của tội phạm: Chỉ những người tham gia giao thông đường bộ mới là chủ thể của tội phạm này và đạt độ tuổi từ 16 trở lên có năng lực TNHS.

So với BLHS năm 1999 thì chủ thể không chỉ còn là người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà mở rộng ra là người tham gia giao thông đường bộ. Đây là thay đổi khác biệt của lần sửa đổi này so với Điều 202 BLHS năm 1999.

Người tham gia giao thông đường bộ gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ.

Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm người điều khiển xe cơ giói, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

– Mặt chủ qun của tội phạm: Người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ thực hiện hành vi là do lỗi vô ý.

– Hình phạt:

+ Khung 1: Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. So với khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 thì quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 mức phạt tăng hơn: Mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng (trước đây là 5.000.000 đồng); mức phạt tù từ 01 năm (trước đây là 6 tháng).

+ Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

  1. a) Không có giấy phép lái xe theo quy định.

Điều 260 BLHS năm 2015 bỏ tình tiết “Không có bằng lái xe theo quy định” tại điểm khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999, nhằm thống nhất với quy định tại Điều 59 Luật giao thông đường bộ.

Đối với một số phương tiện giao thông, theo quy định thì người điều khiển phải có giấy phép lái xe thì mới điều khiển. Nếu người điều khiển các phương tiện này không có giấy phép lái xe, nhưng vẫn điều khiển mà vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ và gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì bị truy cứu TNHS theo điểm a khoản 2 của Điều luật.

Giấy phép lái xe có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và lãnh thổ của nước hoặc vùng lãnh thổ mà Việt Nam ký cam kết công nhận giấy phép lái xe của nhau.

Không có giấy phép lái xe theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 là một trong những trường hợp sau đây: Điều khiển phương tiện giao thông không có giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đang điều khiển đó mà theo quy định của pháp luật, khi điều khiển loại phương tiện đó phải có giấy phép lái xe phù hợp; Điều khiển phương tiện giao thông trong thời hạn bị tước quyền sử dụng giấy phép lái do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đang điều khiển mà theo quy định của pháp luật, khi điều khiển loại phương tiện đó phải có giấy phép lái xe phù hợp; Điều khiển phương tiện giao thông trong thời hạn bị cơ quan có thẩm quyền cấm điều khiển loại phương tiện đó.

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

Đây là trường hợp vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản mà người phạm tội sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác.

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm (là trường hợp người phạm tội do vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản, nhưng sau đó đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm.) hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn (là trường hợp người phạm tội do vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác nhưng đã cố ý không cứu giúp người bị nạn).

Bỏ chạy vì lý do bị đe dọa đến tính mạng, nhưng phải đến trình báo ngay với cơ quan công an gần nhất; cung cấp thông tin chính xác thực về vụ tai nạn cho cơ quan có thẩm quyền thì không phải là để trốn tránh trách nhiệm. Vì vậy, khi xác định tình tiết phạm tội này cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét một cách toàn diện đầy đủ, không chỉ căn cứ vào hành vi bỏ chạy của người phạm tội mà phải xác định xem vì sao họ phải bỏ chạy và sau đó họ có trốn tránh trách nhiệm không.

Cố ý không cứu giúp là có điều kiện cứu mà không cứu, đã có yêu cầu của người khác nhưng vẫn không cứu giúp. Hành vi cố ý không cứu giúp không nhất thiết phải dẫn đến hậu quả là người bị nạn chết hoặc bị tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe. Nếu không phải là người đã gây ra tai nạn mà cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng quy định tại Điều 132 BLHS năm 2015.

  1. d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thong.

Điểm d khoản 2 Điều 260 BLHS đã bỏ tình tiết “đang làm nhiệm vụ” so với điểm d khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 mà không ảnh hưởng đến tinh thần của điều luật. Đây là trường hợp người tham gia giao thông đường bộ đã không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông, nên đã gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc tài sản của người khác. Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông được coi là một hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ.

So với điểm đ khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 chỉ nêu tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng”  thì đến khoản 2 (điểm đ, e, g, h) Điều 260 BLHS năm 2015 cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt cụ thể: đ) Làm chết 02 người; e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%; g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

So với khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 với khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 thì không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn.

+ Khung 3: Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 260 BLHS năm 2015, thì có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Trong khoản 3 của Điều 202 BLHS năm 1999 chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là: “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Khoản 3 củ Điều 260 BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt, cụ thể: a) Làm chết 03 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

So với khoản 3 Điều 202 BLHS năm 1999 với khoản 3 Điều 260 BLHS năm 2015 thì không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn.

+ Khung 4: Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

Đây là cấu thành giảm nhẹ và cũng là cấu thành khá đặc biệt đối với tội phạm này mà thực tế rất ít xảy ra.

So với khoản 4 Điều 202 BLHS năm 199 thì khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015 đã bỏ tình tiết dẫn đến “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” mà thay vào đó tình tiết dẫn đến “hậu quả tại một trong các điểm a, b, c và khoản 3 điều này”.

+ Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

Quang Thắng